Cơ chế cơ bản Dịch_mã

Một ribosome dịch ra một protein được tiết vào mạng lưới nội chất. tARN có màu xanh thẫm.Tertiary structure of tRNA. CCA tail in yellow, Acceptor stem in purple, Variable loop in orange, D arm in red, Anticodon arm in blue with Anticodon in black, T arm in green.

Quá trình dịch mã cơ bản là bổ sung một axit amin tại một thời điểm cho đến khi kết thúc polypeptide hình thành. Quá trình này diễn ra bên trong ribosome. Một ribosome được tạo thành từ hai tiểu đơn vị, một tiểu đơn vị nhỏ 40S và một tiểu đơn vị 60S. Các tiểu đơn vị này đến với nhau trước khi dịch mARN tạo thành một protein để cung cấp vị trí cho dịch mã thực hiện và tạo polypeptide.[1] Sự lựa chọn loại axit amin được thêm vào xác định bởi mã di truyền trên mỗi phân tử mARN. Mỗi axit amin được thêm vào khớp với bộ 3 đối mã của mARN. Đối với mỗi bộ 3 như vậy, axit amin tương ứng được lắp thêm. Các axit amin kế bên thêm vào ứng với chuỗi mã hóa mARN. Theo cách này, trình tự nucleotide trong khuôn mẫu mARN xác định trình tự chuỗi axit amin được tạo ra.[2] Bổ sung một axit amin xảy ra ở đầu cuối C của peptide và do đó dịch mã được gọi là định hướng amino-đến-carboxyl.[3]

mARN mang thông tin di truyền được mã hóa là một chuỗi ribonucleotide từ nhiễm sắc thể đến ribosome. Các ribonucleotides được "dịch" các bộ 3 nucleotide gọi là codon. Mỗi bộ 3 mã hóa cho một axit amin cụ thể.

Trên mỗi ribosome có 3 vị trí gắn riêng biệt với tARN. Quá trình khởi đầu, axit amin được hoạt hóa bằng ATP tạo thành axit amin hoạt hóa. Enzym Aminoacyl tRNA synthetase xúc tác cho liên kết giữa một axit amin hoạt hóa và một tARN mà chúng cần. Sản phẩm của quá trình này là một phức hợp axit amin - tARN (Aminoacyl-tRNA).

Liên quan